1. ĐẠI CƯƠNG
Chảy máu sau sinh là một biến chứng trầm trọng, một
trong 5 tai biến chính của sản khoa. Ngày nay, nhờ các tiến bộ của hồi sức cấp
cứu đã làm giảm sự trầm trọng của biến chứng này. Chảy máu sau đẻ vẫn là nguyên
nhân gây tử vong chính trong sản khoa, đặc biệt khi có biểu hiện rối loạn đông
máu. Biến chứng này thường xảy ra bất ngờ do vậy cần phải có biện pháp dự phòng
và điều trị tích cực.
Chảy máu sau đẻ là khi lượng máu mất trên 500ml hoặc
choáng do mất máu xảy ra sau đẻ và thường xảy ra trong 24 giờ đầu. Tuy nhiên, một
số trường hợp chỉ mất lượng máu ít hơn nhưng đã ảnh hưởng đến tổng trạng chung
của sản phụ, tuỳ theo thể trạng và bệnh lý trước đó. Tần suất: Trong y văn đối
với đẻ đường dưới tần suất chảy máu trên 300ml là 18% - 26%, chảy máu nặng trên 1000ml từ 3 - 4,5% sau đẻ hoặc
6% sau mổ lấy thai.
Chảy máu xảy ra ngay sau đẻ có thể do 3 nguyên nhân:
- Bệnh
lý trong thời kỳ sổ rau: do sót rau, đờ tử cung.
- Tổn
thương đường sinh dục: vỡ tử cung, rách cổ tử cung, rách âm đạo, rách tầng sinh
môn.
- Bệnh
lý rối loạn đông máu (rất hiếm gặp).
2. BỆNH
LÝ THỜI KỲ SỔ RAU
2.1. Sót
rau
Rau sót nhiều hoặc ít trong tử cung đều gây chảy máu.
2.1.1. Rối loạn về co bóp tử cung
Đờ tử cung là nguyên nhân gây chảy máu sau đẻ thường
gặp nhất. Ngược với đờ tử cung là tăng trương lực tử cung dưới dạng co thắt tử
cung, tạo vòng thắt ở lỗ trong cổ tử cung hoặc ở sừng tử cung làm rau bị cầm tù
trên vòng thắt.
2.1. 2. Bám
bất thường của bánh rau
Rau cài răng lược (rau bám chặt, rau bám vào cơ tử
cung, rau xuyên cơ tử cung) loại này hiếm gặp, tỷ lệ 1/10.000 cuộc đẻ, chỉ xảy
ra trong trường hợp bất thường của niêm mạc tử cung: sẹo cũ, dính, u xơ, giảm sản
nội mạc, viêm nội mạc, dị dạng tử cung.
2.1.3. Bất thường về vị trí bánh rau
Rau bám đoạn dưới, trên vách tử cung dị dạng, trên vùng
tử cung mỏng. Hoạt động tử cung ở vùng này ít hiệu quả để bong rau. Nguy cơ rau
cài răng lược ở trên các chỗ bám này cũng cao hơn.
Điều trị: chỉ định kiểm soát lòng tử cung trong trường
hợp chảy máu do sót rau. Đối với trường hợp sau sổ thai một giờ rau không bong,
nghiệm pháp bong rau âm tính, hoặc chảy máu nhiều phải bóc rau nhân tạo, nếu không
kết quả thì mổ cắt tử cung bán phần.
2.1.4. Dự phòng
Lý tưởng nhất là phải dự phòng các trường hợp chảy máu
sau đẻ:
+ Tôn trọng các nguyên tắc trong thời kỳ sổ rau.
+ Nếu xử trí tích cực giai đoạn 3 cần phải thực hiện
đúng kỹ thuật
+ Kiểm tra kỹ bánh rau, trong trường hợp sót rau phải
kiểm tra lòng tử cung.
2.2. Đờ tử cung
2.2.1. Nguyên nhân: đờ tử cung có thể xaỷ ra ở những
trường hợp sau
- Sản
phụ suy nhược, thiếu máu, tăng huyết áp, tiền sản giật...
- Nhược
cơ tử cung do chuyển dạ kéo dài.
- Tử
cung giãn quá mức do song thai, đa ối, thai to.
- Tử
cung mất trương lực sau khi đẻ quá nhanh.
- Sót
rau, màng rau trong buồng tử cung
- Bất
thường tử cung: u xơ, tử cung dị dạng.
- Đờ tử
cung do sử dụng thuốc: Sau gây mê bằng các thuốc mê họ Halothane(fluothane) sử
dụng Betamimetic, dùng ôxytôxin không liên tục sau khi sổ thai.
Trên lâm sàng có hai mức độ đờ tử cung:
- Đờ tử
cung còn phục hồi: là tình trạng cơ tử cung bị giảm trương lực nên tử cung co hồi
kém, đặc biệt ở vùng rau bám; nhưng cơ tử cung còn đáp ứng với các kích thích cơ
học và thuốc.
- Đờ tử
cung không hồi phục: cơ tử cung không còn đáp ứng với các kích thích trên.
2.2.2. Triệu chứng và chẩn đoán
- Chảy
máu: chảy máu ngay sau sổ rau là triệu chứng phổ biến nhất. Máu có thể chảy liên
tục hoặc khi ấn vào đáy tử cung máu sẽ chảy ồ ạt ra ngoài.
- Tử
cung nhão, mềm do co hồi kém hoặc không co hồi, không có khối an toàn mặc dầu
rau đã sổ.
2.2.3. Xử trí
Phải xử trí khẩn trương, tiến hành song song cầm máu
và hồi sức.
- Dùng
mọi biện pháp cơ học để cầm máu: xoa tử cung qua thành bụng, chẹn động mạch chủ
bụng, ép tử cung bằng hai tay.
- Thông
tiểu để làm rỗng bàng quang .
- Làm sạch
lòng tử cung: Lấy hết rau sót, lấy hết máu cục.
- Tiêm
5-10 đơn vị ôxytôxin tiêm bắp hoặc tiêm vào cơ tử cung, nếu tử cung vẫn không
co thì tiêm bắp Ergometrine 0,2mg(cũng có thể truyền tĩnh mạch để có tác dụng
nhanh hơn )
- Truyền
nhỏ giọt tĩnh mạch ôxytôxin 5-10 đơn vị trong 500 ml dung dịch glucoza 5%
- Truyền
dịch chống choáng
- Trong
2 giờ đầu mỗi 15 phút xoa đáy tử cung một lần, kéo dài trong 2 phút cho đến khi
có cảm giác tử cung co cứng thành khối dưới tay.
Tuy nhiên nếu sau khi xoa bóp tử cung, tiêm ôxytôxin
hoặc Ergometrin nhưng máu tiếp tục chảy và mỗi khi ngừng xoa tử cung lại nhão,
phải nghĩ đến đờ tử cung không hồi phục, lập tức chỉ định can thiệp phẫu thuật
(buộc hai động mạch tử cung, cắt tử cung bán phần...).
- Tuyến
xã: Nếu không cầm máu được thì mời tuyến trên hỗ trợ hoặc chuyển tuyến trên
- Tuyến
huyện: Xử trí như trên, nếu không cầm máu được thì mổ cắt tử cung bán phần.
2.2.4. Dự phòng
Trong trường hợp chuyển dạ kéo dài hoặc tử cung bị
giãn quá mức do thai to, đa ối, các trường hợp con rạ đẻ nhiều lần nên:
- Theo
dõi cuộc đẻ bằng biểu đồ chuyển dạ
- Tiêm
bắp 10 đơn vị ôxytôxin khi vai trước sổ hoặc ngay sau sổ thai nhưng phải chắc
chắn rằng không còn thai thứ 2.
- Xử trí
tích cực giai đoạn III bao gồm: tiêm ôxytôxin, kéo nhẹ dây rốn có kiểm soát và
xoa tử cung.
-
Misoprostol 200 mcg x 2 viên đặt trực tràng sau sổ rau.
2.3. Lộn lòng
tử cung
Là biến chứng hiếm gặp, do các nguyên nhân: keó dây
rốn, đẩy đaý tử cung khi sổ rau. Triệu chứng thường gặp là đau dữ dội, chảy máu
nhiều, choáng, mót rặn. Mót rặn chỉ gặp trong hai trường hợp sau đẻ, đó là khối
máu tụ âm đạo, tiểu khung hoặc lộn lòng tử cung.
Khám bụng: Tuỳ theo mức độ có thể thấy lõm ở đáy tử
cung, hoặc không sờ thấy tử cung trên vệ. Khám âm đạo thấy khối tử cung trong âm
đạo, mềm, đau, có thể co bóp, có vòng thắt tử cung trên khối đó.
Xử trí: nếu chẩn đoán sớm có thể đẩy tử cung trở lại,
sau đó tiêm ôxytôxin và phải giữ tay trong lòng tử cung để kiểm soát sự co bóp
của tử cung, nếu thất bại phải mổ cắt tử cung.
2.4. Rau cài
răng lược
Ở người có tiền sử đẻ nhiều lần, nạo thai nhiều lần,
viêm niêm mạc tử cung; chất lượng niêm mạc tử cung không còn tốt nên các gai
rau bám trực tiếp vào cơ tử cung (không có lớp xốp của ngoại sản mạc), có khi
gai rau xuyên sâu vào chiều dày lớp cơ tử cung. Có thể chỉ một phần bánh rau bám
vào lớp cơ hay toàn bộ bánh rau bám vào lớp cơ, người ta phân rau cài răng lược
thành các loại sau:
- Rau cài
răng lược toàn phần: Toàn bộ bánh rau bám vào lớp cơ tử cung do đó không bong
ra được và không chảy máu.
- Rau cài
răng lược bán phần: chỉ một phần bánh rau bám sâu vào cơ tử cung do đó bánh rau
có thể bong một phần, gây chảy máu. Lượng máu chảy tùy thuộc vào vào tình trạng
co của lớp cơ tử cung và mức độ bong rau.
- Có 3
mức độ cài của gai rau:
+ Rau bám chặt.
+ Rau bám xuyên cơ tử cung.
+ Rau xuyên thủng cơ tử cung, có thể bám vào các tạng
lân cận.
2.4.1. Triệu chứng lâm sàng
- Nếu
rau cài răng lược toàn phần thì sau sổ thai một giờ rau vẫn không bong, tuy không
chảy máu.
- Nếu
rau cài răng lược bán phần thì sau khi thai sổ, rau vẫn không bong hết nên không
sổ được, chảy máu nhiều hay ít tùy theo diện rau đã bong rộng hay hẹp.
- Chỉ có
thể chẩn đoán chắc chắn dựa vào thử bóc rau không kết quả hay chỉ bóc được một
phần và máu chảy nhiều.
- Cần
chú ý phân biệt với rau mắc kẹt (rau bị cầm tù):
Trường hợp này bánh rau đã bong nhưng không sổ tự
nhiên được vì bị mắc kẹt trong tử cung do vòng thắt của lớp cơ đan. Đặc biệt bánh
rau dễ bị mắc kẹt trong trường hợp tử cung hai sừng, khi ấy chỉ cần cho tay vào
buồng tử cung sẽ lấy được rau ra vì bánh rau đã bong hoàn toàn.
2.4.2. Xử trí
- Nếu máu
chảy trong thời kỳ sổ rau hoặc trên một giờ rau không bong thì bóc rau nhân tạo,
kiểm soát tử cung.
- Nếu bóc
rau không được do rau bám xuyên vào cơ tử cung, phải mổ cắt tử cung bán phần, hồi
sức, truyền dịch, truyền máu trong và sau mổ.
- Trường
hợp rau tiền đạo cài răng lược phải cắt tử cung bán phần thấp hoặc cắt tử cung
hoàn toàn để cầm máu.
- Tuyến
xã: Nếu chảy máu khi rau chưa bong thì bóc rau nhân tạo, kiểm soát tử cung và dùng
ôxytôxin. Nếu rau không bong và không chảy máu thì chuyển tuyến trên.
- Tuyến
huyện: Bóc rau nhân tạo, kiểm soát tử cung, nếu bóc không được thì cắt tử cung
bán phần.
3. CHẤN
THƯƠNG ĐƯỜNG SINH DỤC
3.1. Vỡ tử
cung
Xem bài "Vỡ tử cung"
3.2. Rách âm
hộ, âm đạo, tầng sinh môn
3.2.1 Nguyên
nhân
- Về phía
mẹ: Tầng sinh môn rắn ở người sinh con so lớn tuổi, nhiễm khuẩn, phù nề và có sẹo
cũ ở tầng sinh môn
- Về phía thai: thai to, thai sổ kiểu chẩm cùng, sổ đầu
hậu trong ngôi ngược
- Do thủ thuật: đẻ hỗ trợ bằng forceps, giác hút..
3.2.2. Chẩn đoán:
Sau khi sổ thai thấy máu vẫn chảy ra, có thể nhìn thấy
ngay máu chảy từ vết rách hay vết cắt tầng sinh môn, cần kiểm tra kỹ chỗ rách để
xác định mức độ rách tầng sinh môn:
- Độ I:
Rách da và niêm mạc âm đạo
- Độ
II: Rách da, niêm mạc âm đạo và một phần cơ tầng sinh môn (thường là cơ hành
hang)
- Độ III: Rách cơ tầng sinh môn tới tận
nút thớ trung tâm
- Độ
IV: Rách qua nút thớ trung tâm tới tận phên trực tràng âm đạo, làm âm đạo thông
với trực tràng
3.2.2 Xử trí
- Gây tê
tại chỗ hoặc sử dụng các thuốc giảm đau
- Khâu
phục hồi sau khi sổ rau và biết chắc là tử cung không còn sót rau
- Khâu
từ trong ra ngoài, từ lớp sâu đến nông, khâu mũi rời, các mũi cách rau 0,5 cm.
Mũi khâu đầu tiên của lớp niêm mạc phải trên đỉnh vết rách 0,5-1cm.
- Khâu
3 lớp: lớp niêm mạc và lớp cơ ở trong bằng catgut, lớp da ở ngoài bằng chỉ không
tiêu; Không để khoảng trống giữa 2 lớp, không để lệch hoặc chồng mép. Riêng đối
với rách tầng sinh môn độ IV, vì phẫu thuật phức tạp, vết rách khó liền do sản
dịch và nước tiểu gây nhiễm khuẩn tại chỗ, chỉ nên khâu phục hồi sau khi hết thời
kỳ hậu sản.
3.2.3. Chăm sóc
- Giữ vết
khâu luôn sạch: phải rửa âm hộ ngày 2-3 lần nhất là sau đại tiện, tiểu tiện.
- Giữ vết
khâu khô: Sau khi rửa phải thấm khô
- Chế độ
ăn: ăn nhẹ, tránh táo bón
- Nếu vết
khâu phù nề cần cắt chỉ sớm
- Cắt
chỉ sau 5 ngày
3.2.4. Dự phòng :
- Hướng
dẫn cho sản phụ cách rặn đẻ
- Giữ tầng
sinh môn đúng phương pháp khi sổ thai
- Đỡ đẻ
đúng kỹ thuật.
- Cắt tầng
sinh môn khi có chỉ định.
3.3. Rách cổ
tử cung
3.3.1. Nguyên nhân
Tất cả các trường hợp chảy máu ngay sau đẻ, phải kiểm
tra cổ tử cung. Tần suất có thể gặp 11% ở con so, 4% ở con rạ. Rách thường ở
hai vị trí 3- 9 giờ, có thể kéo lên đến vòm âm đạo, đôi khi rách cổ tử cung lên
đến đoạn dưới. Rách cổ tử cung có thể gặp khi sổ thai mà cổ tử cung chưa mở hết,
sinh thủ thuật, đẻ nhanh, cổ tử cung xơ chai.
3.3.2. Chẩn đoán:
Sau khi sổ thai hoặc rau máu ra nhiều màu đỏ tươi,
kiểm tra cổ tử cung thấy có chỗ rách nham nhở hoặc không liên tục, đang chảy máu(lưu
ý vị trí 3 giờ và 9 giờ)
Rách nông: Đỉnh vết rách ở dưới chỗ bám âm đạo - cổ
tử cung
Rách sâu: Đỉnh vết rách ở trên chỗ bám âm đạo -cổ tử
cung, phải kiểm tra kỹ xem có vỡ tử cung, rách bàng quang hoặc tổn thương trực
tràng
3.3.2. Xử trí
Đánh giá cẩn thận tổn thương, phải thấy rõ đỉnh vết
rách, khâu phục hồi vết rách bằng các mũi rời. Trường hợp rách trên âm đạo, nếu
ngoài phúc mạc có thể khâu đường dưới, nếu trong phúc mạc đôi khi phải phẫu thuật.
4. BỆNH
LÝ RỐI LOẠN ĐÔNG CHẢY MÁU
4.1. Nguyên
nhân
Chảy máu do bệnh lý rối loạn đông máu thường nặng, có
thể gặp trong các bệnh lý sản khoa như rau bong non, thai chết trong tử cung,
nhiễm trùng tử cung, tắc mạch nước ối, hoặc một số bệnh lý nội khoa khác như viêm
gan siêu vi cấp, xuất huyết giảm tiểu cầu,…
4.2. Các yếu
tố chẩn đoán sinh học
- Tăng
thời gian Quick
- Tăng
thời gian hoạt hoá cephaline
- Giảm
số lượng tiểu cầu
- Giảm
fibrinogen.
- Giảm
tỷ lệ của các yếu tố II, V, giảm Antithrombin III, tăng các sản phẩm thoái hoá
fibrin(PDF)
4.3. Điều
trị
- Điều
trị: bổ sung các yếu tố thiếu: truyền máu tươi, Plasma tươi, cung cấp các yếu tố
đông máu. Fibrinogen cô đặc được chỉ định trong trường hợp giảm Fibrinogen nặng.
-
Heparin ít sử dụng trong chảy máu sản khoa.
- Sau
khi điều chỉnh các yếu tố đông máu và ngừng chảy máu, nên dự phòng tắc mạch do
huyết khối bằng Calciparin trong 21 ngày.
- Phẫu
thuật cắt tử cung bán phần kèm buộc động mạch hạ vị trong một số trường hợp có
chỉ định.
5. ĐỀ PHÒNG
CHẢY MÁU SAU SINH
- Sử dụng
biểu đồ chuyển dạ để phát hiện chuyển dạ bất thường và phải xử trí thích hợp
- Sử dụng
thuốc tăng và giảm co đúng chỉ đinh, liều lượng
- Đỡ đẻ
đúng kỹ thuật
- Kiểm
tra rau và màng rau tránh để sót rau, sót màng
- Sau
sinh phải kiểm tra ống đẻ để phát hiện các tổn thương
- Tư vấn
và vận động thực hiện sinh đẻ có kế hoạch