1. ĐẠI CƯƠNG
Virus gây suy giảm miễn dịch ở người (Human
Immunodeficiency Virus - HIV) gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (gọi
tắt là hội chứng AIDS - Acquired Immuno Deficiency Syndrom) là một bệnh lây
truyền. Tuy mới được thông báo từ 1981, nhưng có lẽ bệnh này đã xuất hiện từ lâu
và được lan truyền từ Châu Phi sang Châu Mỹ (Bắc Mỹ), Châu Âu, sau đó lan sang
Châu Á và Châu Mỹ La Tinh. Từ đó bệnh dịch không ngừng phát triển, đã lan rộng
trên toàn thế giới.
Bệnh được truyền qua các đường khác nhau như: máu,
tinh dịch, dịch tiết âm đạo và qua sữa mẹ khi cho con bú.
Nguyên nhân gây bệnh hiện nay đã rõ là do các virus
thuộc họ Rétrovirus, chúng có chứa một loại men sao chép ngược cho phép chúng xâm
nhập vào nhiễm sắc thể tế bào vật chủ, cư trú trong hệ gen của các tế bào bị
nhiễm và nhân lên ở đó. Khi xâm nhập vào máu virus HIV phá huỷ các tế bào
Lympho T4 và các tế bào thần kinh trung ương gây sự suy giảm miễn dịch tế bào,
phát sinh nhiều loại u bướu và những nhiễm trùng cơ hội và gây nguy cơ tử vong.
Đường lây truyền HIV cho phụ nữ:
- Giao
hợp không được bảo vệ (qua tinh dịch).
- Dùng
các ống kim tiêm đã nhiễm HIV, truyền máu và các chế phẩm của máu có chứa
- Người
mẹ khi bị nhiễm HIV khi có thai có thể truyền cho con (qua bánh rau khi có
thai, qua máu và dịch âm đạo khi chuyển dạ đẻ, qua sữa khi cho con bú).
2. DỊCH
TỄ HỌC
Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, trên toàn thế
giới có khoảng 5 triệu người HIV(+) (1997), một nửa là phụ nữ. Năm 2000 số phụ
nữ mắc bệnh này khoảng 14 triệu và khoảng 4 triệu trong số đó sẽ chết vì AIDS.
Ở Mỹ khoảng 89% phụ nữ mắc phải hội chứng suy giảm
miễn dịch đang trong lứa tuổi sinh đẻ. Phụ nữ có thai nhiễm HIV khoảng 6%, mặc
dù vậy 50% trong số họ vẫn quyết định giữ thai.
Đến cuối năm 2003, ít nhất trên thế giới đã có 42
triệu người bị nhiễm HIV còn sống và khoảng 30 triệu người đã chết. Cứ mỗi ngày
qua đi đã có thêm 14.000 người mới bị nhiễm HIV.
Tại Việt Nam, tính đến ngày 31/12/2004, lũy tích số
người được phát hiện nhiễm HIV trên toàn quốc là 90.380 người, trong đó có
14.428 trường hợp AIDS và 8.348 trường hợp AIDS đã tử vong. Dự báo đến năm
2010, Việt Nam sẽ có khoảng 350.000 người nhiễm HIV/AIDS.
Theo Uỷ ban Quốc gia phòng chống AIDS, số trẻ bị nhiễm
HIV ngày càng tăng. Năm 1997 phát hiện 7 trường hợp và đến năm 2002 đã có 20 trường
hợp dưới 5 tuổi được phát hiện nhiễm HIV từ mẹ. Trong khi đó, sau 2 năm, tỷ lệ
phụ nữ mang thai nhiễm HIV đã tăng gấp 2 lần (từ 0,2% năm 2000 lên 0,4% vào thời
điểm tháng 5/2002).
3. CÁC YẾU
TỐ NGUY CƠ VÀ LÂY TRUYỀN HIV TRONG KHI MANG THAI
3.1. Các yếu
tố nguy cơ trong lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con
- Nồng độ
virus cao hơn 1.000 con/ml huyết tương.
- Tình
trạng miễn dịch kém.
- Không
dùng thuốc chống virus khi mang thai.
- Có bệnh
lây truyền qua đường tình dục.
- Vỡ ối
kéo dài (một số nghiên cứu cho thấy thời gian này là trên 4 giờ, những nghiên cứu
khác cho thấy nguy cơ tăng với mỗi giờ vỡ ối) .
- Viêm
màng ối.
3.2. Lây
truyền HIV trong khi mang thai
- Giai đoạn
mang thai: HIV có khả năng lây truyền cho thai qua bánh rau. Sự lây truyền này
có thể xảy ra trong suốt thời kỳ thai nghén, nhưng tỷ lệ lây truyền cao khi tuổi
thai trên 18 tuần.
- Trong
quá trình chuyển dạ: Sự lây truyền HIV thường xảy ra muộn quanh thời kỳ chuyển
dạ; đó là do cơn go tử cung đẩy máu mẹ mang theo HIV vào tuần hoàn bánh rau hoặc
đứa trẻ tiếp xúc trực tiếp với dịch âm đạo có chứa HIV, nhất là những trường hợp
đẻ khó, ối vỡ sớm, chuyển dạ kéo dài, có nhiều tổ chức của mẹ bị dập nát,…
- Giai đoạn
cho con bú: sự lây truyền HIV qua sữa mẹ là cách lây truyền hay gặp nhất. Nguy
cơ này có liên quan đến thời gian cho con bú dài hay ngắn
4. CHẨN ĐOÁN
4.1. Lâm sàng
- Giai đoạn
nhiễm HIV: Người nhiễm HIV không có biểu hiện gì trên lâm sàng, chẩn đoán chủ yếu
dựa vào xét nghiệm.
- Giai đoạn
bệnh AIDS: được chia làm 4 giai đoạn phụ thuộc vào các bệnh lý liên quan đến
HIV như tình trạng:
+ Sụt cân, sốt kéo dài, đau họng . . .
+ Nhiễm trùng cơ hội.
+ Các bệnh ác tính.
+ Mức độ hoạt động về thể lực của cơ thể.
4.2. Cận lâm
sàng
- Dựa vào
test ELISA (Enzyme Linked Immunosorbent Assay): cho phép phát hiện kháng thể kháng
HIV với độ nhạy # 99%.
- Kết
quả ELISA dương tính được khẳng định bởi test Western blot.
- Kỹ
thuật miễn dịch huỳnh quang: cho các tế bào bị nhiễm tiếp xúc với huyết thanh của
bệnh nhân, phản ứng (+) tính nếu kháng thể hiện diện cố định trên những tế bào
bị nhiễm có thể thấy được bởi kỹ thuật huỳnh quang.
- Kỹ
thuật RIPA (Radio-Immuno Precipitation Assay) là kỹ thuật đặc hiệu nhất dùng chất
hoạt tính phóng xạ. Xét nghiệm này được chỉ định khi mà các kết quả trước bị
nghi ngờ hoặc muốn khẳng định.
- PCR
(Polymerase Chain Reaction) là một phương pháp chuyên biệt nhạy cảm dùng để xác
định loại ADN. Ngày nay nó được dùng như một trắc nghiệm để xác định ADN của
virus HIV.
- Sự tiến
triển về lâm sàng của bệnh được đánh giá bằng tổng số tế bào Lympho T CD4:
+ Nếu tổng số CD4 lớn hơn 500 tế bào/mm3 coi như không
có suy giảm miễn dịch, và không có nhu cầu điều trị.
+ Tổng số CD4 từ 200-500 tế bào/ mm3 đòi hỏi có sự
can thiệp.
+ Tổng số CD4 nhỏ hơn 200 tế bào/mm3 hoặc cao hơn nhưng
kèm nhiễm nấm hay sốt âm ỉ trên 37,8oC thì bệnh nhân có nguy cơ tăng các biến
chứng.
- Người
nhiễm HIV có tổng số Lympho dưới 1200 tế bào/ mm3 được xem là suy giảm miễn
dich nặng.
5. HƯỚNG
ĐIỀU TRỊ VÀ DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV TỪ MẸ SANG CON CỦA VIỆT NAM
5.1. Chẩn đoán
sớm người có thai HIV (+)
- Vấn đề
đặt ra là làm thế nào đề phát hiện các phụ nữ có thai nhiễm HIV sớm, vì vậy cần
làm xét nghiệm HIV hàng loạt cho thai phụ bằng test ELISA, kể cả khi không có
những nguy cơ rõ ràng. Nếu test ELISA (+) cần làm thêm test Western blot để khẳng
định chẩn đoán.
- Theo
quy định hiện nay, chỉ một số trung tâm có trang thiết bị đầy đủ sau khi kiểm
tra lại mẫu máu được chẩn đoán là HIV (+) qua các xét nghiệm mới được phép thông
báo cho thai phụ.
5.2. Các
trƣờng hợp muốn đình chỉ thai nghén
- Với các
thai nhỏ dưới 22 tuần, sau khi được tư vấn, néu thai phụ đồng ý phá thai thì giải
quyết hút hay nạo thai tùy theo tuổi thai. Những trường hợp này sẽ được thực hiện
ở cơ sở có phẫu thuật, có Bác sĩ chuyên khoa sản. Sau khi nạo thai bệnh được điều
trị như các bệnh nhân HIV khác.
- Nếu
thai phụ muốn giữ thai thì cơ sở y tế nên gởi đến khoa sản bệnh viện huyện hoặc
tuyến có kỹ thuật cao hơn để được quản lý và điều trị dự phòng lây nhiễm cho
con bằng thuốc chống Rétrovirus.
5.3. Xử trí
trong trƣờng hợp thai phụ bị nhiễm HIV
Cần phải điều trị cho thai phụ bị nhiễm HIV với mục đích
làm giảm lây nhiễm từ mẹ sang con, nếu người mẹ và gia đình sau khi được tư vấn
vẫn muốn giữ thai.
5.3.1 Ở tuyến
xã
Tư vấn cho thai phụ về khả năng lây truyền HIV từ mẹ
sang con và chuyển lên tuyến trên.
5.3.2 Ở tuyến
huyện
Nếu thai phụ đồng ý phá thai:
- Tùy
tuổi thai mà tiến hành các kỹ thuật nạo phá thai an toàn.
- Cần tư
vấn về các biện pháp tránh thai và tránh lây lan sang nguời khác sau khi đã phá
thai.
- Sau khi đã phá thai chuyển bệnh nhân về trung tâm
y tế dự phòng để quản lý và điều Nếu thai phụ muốn giữ thai:
- Quản lý thai nghén.
- Tư vấn cho thai phụ về nguy cơ lây truyền cho con
và khả năng chỉ phòng lây nhiễm được trong 3/4 trường hợp mặc dù đã uống thuốc đầy
đủ.
- Tùy điều kiện của cơ sở điều trị có thể lựa chọn một
trong hai phác đồ sau:
+ Phác đồ sử dụng Nevirapine: Khi bắt đầu có dấu hiệu
chuyển dạ thực sự hoặc trước khi mổ lấy thai, cho thai phụ uống một lần duy nhất
một viên Nevirapine 200mg.
+ Phác đồ sử dụng Zidovudine: Zidovudine 600mg/ngày,
chia hai lần, bắt đầu uống từ tuần thứ 36 của thai kỳ cho đến khi chuyển dạ.
Trong trường hợp thai phụ đến khám thai muộn sau tuần thứ 36 của thai kỳ cũng
cho uống như trên với liều Zidovudine 600mg/ngày cho đến khi chuyển dạ. Khi
chuyển dạ sử dụng liều 300mg trong mỗi 3 giờ cho đến khi sinh.
Các điểm cần được thực hiện khi đỡ đẻ:
- Đối với thai phụ:
+ Bảo đảm tuyệt đối vô khuẩn khi đỡ đẻ.
+ Lau rửa âm đạo nhiều lần bằng bông tẩm dung dịch
Chlorua de Belzalkonium hay Chlorhexidine 0,2%.
+ Không cạo lông vùng sinh dục.
+ Tránh bấm ối và cắt tầng sinh môn khi không cần
thiết.
+ Chỉ định mổ lấy thai khi có chỉ định sản khoa.
+ Tư vấn cho người mẹ về lợi ích nuôi con bằng sữa
thay thế sữa mẹ nếu có điều kiện để giảm bớt nguy cơ lây truyền bệnh.
- Đối với trẻ sơ sinh:
+ Không đặt điện cực vào đầu thai nhi (monitoring sản
khoa).
+ Không lấy máu da đầu để làm pH.
+ Tắm cho trẻ ngay sau khi sinh.
+ Ngay sau khi trẻ được sinh ra, cán bộ y tế khoa Sản
phải thông báo cho khoa Nhi biết để trẻ được chăm sóc đặc biệt ở cả hai khoa Sản
và Nhi của bệnh viện.
Điều trị sau sinh:
- Điều trị cho trẻ sơ sinh:
+ Nếu người mẹ uống Nevirapine, thì cho con uống một
lần duy nhất Sirô Nevirapine với liều 2mg/kg cân nặng trong vòng 72 giờ đầu sau
sinh. Cần cho Nevirapine ngay tại thời điểm sinh nếu quãng thời gian giữa liều
Nevirapine ở mẹ và thời điểm sinh đẻ dưới 2 giờ.
+ Nếu người mẹ được uống Zidovudine, thì sau đẻ từ 8
- 10 giờ cho con uống Sirô Zidovudine với liều 2mg/kg cân nặng, cứ 6 giờ uống một
lần cho đến 6 tuần tuổi. Trong trường hợp không có Zidovudine thì cho uống
Nevirapine như trên.
- Điều trị cho mẹ: Nếu cần thiết và có điều kiện sẽ áp
dụng điều trị đặc hiệu cho mẹ bằng thuốc chống Retrovirus và thuốc chống nhiễm
trùng cơ hội.
- Vấn đề cho con bú: Nên tư vấn và khuyên người mẹ
không nên cho con bú để tránh lây truyền bệnh qua sữa. Hướng dẫn cho người mẹ cách
dùng các sản phẩm thay thế sữa mẹ. Trường hợp không có điều kiện dùng sữa thay
thế phải cho trẻ bú mẹ và cần chú ý đến các vết thương trong miệng của trẻ sơ
sinh cũng như đừng để người mẹ mắc các bệnh đầu vú như nứt đầu vú, vì có thể làm
tăng nguy cơ lây nhiễm. Trường hợp trẻ non tháng có thể cho trẻ ăn sữa mẹ bằng
thìa hoặc qua sond dạ dày, nếu không có sữa ngoài.
5.4. Dự phòng
- Thông
tin giáo dục là bước quan trọng nhất để tất cả các phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ
trong lứa tuổi sinh đẻ tự bảo vệ mình và bảo vệ con của mình.
- An toàn
trong tình dục: để tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục (dùng bao cao
su nam nữ).
- Vận động
người phụ nữ có thai, người chồng hay người tình thử HIV để có thái độ xử trí rõ
ràng đối với thai nghén. Nếu có điều kiện, người phụ nữ cũng nên cần biết mình
có bị nhiễm HIV hay không trước khi quyết định có thai.
- Ngay
cả khi người phụ nữ có thai mà HIV âm tính thì cũng cần phải tư vấn cách phòng
chống, tránh nhiễm HIV và nên thử lại HIV vào quý II của thai kỳ để loại trừ việc
bị nhiễm HIV trong khi có thai.
- Trong
trường hợp có thai mà HIV dương tính thì phải tư vấn và vận động phá thai để giảm
tỷ lệ lây truyền nhiễm HIV từ mẹ sang con. Nếu người mẹ và gia đình sau khi đã
tư vấn mà vẫn muốn giữ thai thì khuyên và cho điều trị thuốc chống HIV.