1. MỞ ĐẦU
Sốt rét là một bệnh nguy hiểm vì có thể đe dọa tính
mạng của sản phụ và thai nhi, đặc biệt là sốt rét ác tính. Tiên lượng thường xấu
đối với người có thai con so bị bệnh sốt rét ác tính. Sốt cao, rét run dẫn đến
tử cung co bóp làm tăng nguy cơ sẩy thai, đẻ non. Ngoài ra, thai có thể chết
trong tử cung do hạ đường huyết.
2. TRIỆU
CHỨNG VÀ CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán thường dễ ở những vùng có sốt rét lưu hành
nhưng triệu chứng và biến chứng của sốt rét ác tính cũng thường lẫn lộn với
nhau.
2.1. Triệu
chứng
Có thể phối hợp các triệu chứng sau:
- Sốt
cao, nhiều khi có hạ thân nhiệt, có tình trạng choáng nhiễm ký sinh trùng.
- Hôn mê
kéo dài.
- Thiếu
máu nặng.
- Vàng
da.
- Đái
ra huyết cầu tố.
- Suy
thận cấp (bệnh nhân có thể thiểu niệu)
- Phù
phổi cấp kết hợp suy hô hấp cấp, rối loạn tiêu hóa (nôn...).
- Rối
loạn nước, điện giải kiềm toan, có tình trạng toan axit lactic.
- Hạ đường
máu kèm tình trạng choáng nặng.
- Rối
loạn chức năng đông chảy máu: hay gặp đông máu rải rác trong lòng mạch.
- Bội
nhiễm nhiều cơ quan (hay gặp bội nhiễm ở phổi hoặc nhiễm khuẩn huyết).
2.2. Chẩn đoán
xác định thường dựa vào các triệu chứng chính sau
- Hôn mê
kéo dài > 6 giờ (sau khi loại trừ hôn mê do đường máu).
- Xét
nghiệm máu ngoại vi có thể phân biệt được ký sinh trùng Plasmodium falciparum
> 5% (xét nghiệm 3 lần liên tiếp, 3 giờ một lần).
- Không
có các dấu hiệu của các bệnh khác như: Viêm não màng não, tai biến mạch máu não,
hạ đường máu, hôn mê do nhiễm độc cấp; ngộ độc rượu cấp; sốt thương hàn.
2.3. Chẩn đoán
theo tuyến
Nếu sản phụ ở vùng sốt rét cần chẩn đoán dựa trên các
triệu chứng
2.3.1. Ở tuyến xã
- Sản
phụ suy nhược, sốt cao, nằm liệt giường.
- Kèm rối
loạn ý thức.
- Nôn mửa,
đôi lúc nôn cả thuốc đang dùng.
- Có thể
kèm triệu chứng chảy máu (đái ra máu, ỉa ra máu, chảy máu dưới da. Dấu hiệu dây
thắt dương tính. Nước tiểu có màu đen (đái ra huyết sắc tố).
2.3.2. Ở tuyến huyện
Ngoài các triệu chứng đã nêu ở tuyến xã, còn có thể
gặp thêm:
- Tình
trạng thiếu máu nặng, vàng da, vàng mắt.
- Hạ thân
nhiệt, sốt hoặc hạ huyết áp
- Rối
loạn nước tiểu, điện giải, xuất hiện hiệu chứng phù.
2.3.3. Ở tuyến tỉnh
Ngoài những dấu hiệu tuyến xã, huyện, chúng ta cần tìm
thêm các dấu chứng sau đây:
- Các ổ
nhiễm khuẩn (viêm phổi), nhiễm khuẩn huyết.
- Phù
phổi cấp, hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển.
- Hạ đường
máu.
- Suy
thận cấp.
Tiêu chuẩn cận lâm sàng chẩn đoán ký sinh trùng cho
tuyến huyện và tuyến tỉnh:
- Trong
máu ngoại vi có > 5% hồng cầu có Plasmodium Falciparum. Cần điều trị thuốc
quinine đặc hiệu mặc dù đôi khi tỷ lệ < 5% về ký sinh trùng sốt rét.
- Nếu kết
quả xét nghiệm lần 1 trả lời âm tính, cần tiếp tục làm lại xét nghiệm cứ 3 giờ
sau làm lại 1 lần (có thể thực hiện 3 lần xét nghiệm cách nhau 3 giờ)
3. XỬ TRÍ
Thường xử trí khó khăn; tiên lượng lại nặng cho cả mẹ
và thai nhi. Cần xử trí theo 3 hướng:
3.1. Điều
trị đặc hiệu
3.1.1. Ở tuyến xã
- Dùng
quinine 10 mg/kg cân nặng (8,3 mg hoạt chất) tiêm bắp cứ 8 giờ 1 lần cho đến
khi bệnh nhân uống được thuốc. Điều trị liên tục một đợt (7 ngày).
- Có thể
thay bằng chloroquine 10 mg/kg/24 giờ, tổng liều 25 mg/kg cân nặng.
- Nên
chuyển sớm cho tuyến trên tiếp tục điều trị.
3.1.2. Ở tuyến huyện
Điều trị như tuyến xã.
3.1.3. Ở tuyến tỉnh
-
Quinine 10 mg/kg cân nặng (8,3mg hoạt chất) trong 500 ml dung dịch
Glucoza 5% truyền nhỏ giọt tĩnh mạch chậm trong 4 giờ, cứ 8 giờ điều trị 1 lần.
Điều trị liên tục một đợt 5 ngày.
- Hoặc
dùng chloroquine 5 mg hoạt chất/kg cân nặng trong 500 ml dung dịch Glucoza 5%
truyền nhỏ giọt tĩnh mạch chậm trong khoảng từ 4 - 6 giờ. Lập lại biện pháp điều
trị trên sau 12 giờ. Điều trị liên tục trong 5 ngày.
- Đo
ECG (Điện tim) hàng ngày để theo dõi và xử trí. Trong trường hợp QRS dãn rộng
> 12% giây thì nên giảm liều lượng thuốc đặc hiệu điều trị sốt rét nói trên
cho sản phụ.
3.2. Hồi sức
chống choáng cho bệnh nhân
- Chống
suy thận cấp bằng Furosemid liều cao: Cho 2 đến 4 ống Furosemid 20 mg, cho sử dụng
sớm 48 giờ đầu tiên nếu bệnh nhân vô niệu. Có thể dùng đến > 20 ống
Furosemid thường phối hợp với Dopamin (2 - 5 mcg/kg/phút)
- Nếu sản
phụ sốt cao > 390C: Cần chườm lạnh đầu, cho Paracetamol, Analgin. Không nên
dùng Aspirin.
- Chống
co giật bằng Phénobarbital 0,20g (tiêm bắp) hoặc Diazépam 10mg (tiêm bắp). Nếu
bệnh nhân hôn mê sâu, cần đặt ống nội khí quản, thở máy hỗ trợ hô hấp (nếu có điều
kiện tùy tuyến) và cho sản phụ nằm theo tư thế nghiêng.
- Chống
thiếu máu: Cần truyền máu cho sản phụ nếu hémoglobin < 10g/100ml, hematocrit
< 20%. Truyền máu tươi đồng nhóm hoặc truyền hồng cầu khối. Nếu sản phụ đái
ra huyết cầu tố cần truyền máu nhiều đợt và không nên điều trị thuốc Corticoid.
- Chống
suy hô hấp cấp và phù phổi cấp bằng cách đặt ống cathether đo C.V.P (đo áp lực
tĩnh mạch trung ương). Ngoài ra, cần hạn chế truyền dịch, không nên truyền quá
1.500ml/24 giờ nếu C.V.P > 7 cm H2O. Có thể truyền phối hợp với Furosemide
20 - 40 mg. Nếu sản phụ bị suy hô hấp cấp cần đặt ống nội khí quản, hút đờm dãi,
thông khí nhân tạo nếu có điều kiện tại cơ sở.
- Công
tác điều dưỡng: Cần nuôi dưỡng và chăm sóc tích cực bằng cách bảo đảm chế độ ăn
đầy đủ 2000 calo/ngày, nuôi dưỡng qua thông dạ dày. Nếu nước tiểu > 1000
ml/24, giờ số lượng dịch chuyền và nước thức ăn là 1500 - 2000 ml. Để đề phòng
hạ đường máu xảy ra, cần truyền tĩnh mạch Glucoza 30% 500ml/24 giờ. Cần chống
loét cho sản phụ bằng cách lay trở cơ thể của sản phụ thường xuyên.
3.3. Điều
trị sản khoa
3.3.1. Chưa chuyển dạ
Cần điều trị nội khoa (thuốc đặc hiệu cho sốt rét ác
tính), hồi sức chống choáng và chưa cần thiết can thiệp chuyên khoa phụ sản.
Cho thêm thuốc hạ sốt để tránh cơn go tử cung.
3.3.2. Có dấu hiệu chuyển dạ
Phải phá ối sớm để cuộc đẻ tiến triển nhanh, lúc ngôi
thai đã lọt, đủ điều kiện nên hỗ trợ Forceps lấy thai. Theo dõi sản phụ 24/24
giờ (Hộ lý bậc I) để đề phòng chảy máu sau đẻ vì có thể rối loạn chức năng đông
máu và cần chuẩn bị máu tươi đồng nhóm, Fibrinogen, Hemocaprol, E.A.C.A
(Epsilon Amino Caproid Acid) để xử trí cho sản phụ. Cần chuẩn bị các phương tiện
và chế độ chăm sóc trẻ sơ sinh tốt vì mẹ bị sốt rét ác tính sơ sinh thường non
tháng, suy dinh dưỡng.
4. KẾT
LUẬN
Sốt rét ác tính thường đe dọa sức khỏe, tính mạng sản
phụ và sơ sinh. Các tai biến sản khoa như chảy máu, nhiễm khuẩn cũng thường xảy
ra. Cho nên cần chuyển đến tuyến trên có điều kiện điều trị, hồi sức tốt mới
mong giảm thấp tỷ lệ tử vong cho sản phụ và sơ sinh, góp phần cùng ngành y tế
chăm sóc, quản lý bà mẹ an toàn.