1. THAY ĐỔI VỀ NỘI TIẾT
Trong khi mang thai cơ thể người phụ nữ có nhiều
thay đổi lớn về giải phẫu, sinh lý và sinh hoá. Những thay đổi này xảy ra rất sớm
sau khi thụ tinh và kéo dài trong suốt thời kỳ thai nghén. Nguyên nhân của các
sự thay đổi này là do thay đổi về nội tiết - thần kinh gây ra.
Hai loại nội tiết tố thay đổi nhiều trong khi có
thai là hCG (human Chorionic
Gonadotropin) và các Steroid.
1.1. hCG: là hormon hướng sinh dục rau thai, được tạo
thành từ hai tiểu đơn vị và . hCG được rau thai chế tiết rất sớm, trong những
tuần đầu do cả hai loại đơn bào nuôi (tế bào Langhans) và hợp bào nuôi
(syncytiotrophoblast), sau đó chủ yếu bởi hợp bào nuôi. Có thể phát hiện hCG
trong huyết tương hoặc nước tiểu của thai phụ vào ngày thứ 8 tới thứ 9 sau khi
thụ tinh. Nồng độ hCG trong huyết tương của mẹ tăng gấp đôi sau mỗi 48 giờ và đạt
đỉnh điểm vào khoảng ngày thứ 60 đến 70 của thai kỳ. Sau đó, nồng độ giảm dần tới
điểm thấp nhất vào khoảng ngày thứ 100 đến 130 của thai kỳ.
1.2. Các steroid
Hai steroid quan trọng nhất là progesteron và
estrogen. Lượng nội tiết này tăng lên đều đặn trong quá trình mang thai và đạt
mức cao nhất vào tháng cuối của thai kỳ. Trước khi chuyển dạ đẻ một vài ngày
progesteron và estrogen sẽ giảm thấp xuống một cách đột ngột.
1.2.1. Progesteron: do hoàng thể sản xuất ra trong vài
tuần lễ đầu khi mới có thai, sau đó từ bánh rau. Quá trình sinh tổng hợp của
progesteron sử dụng LDL cholesterol của người mẹ . Lượng sản xuất tối đa là 250
mg/ngày. Tác dụng:
- Giảm trương lực cơ trơn: giảm co bóp của dạ dày, đại
tràng, giảm trương lực cơ tử cung và bàng quang, niệu quản.
- Giảm trương lực mạch máu : áp lực tâm trương giảm,
giãn tĩnh mạch
- Tăng thân nhiệt
- Tăng dự trữ mỡ
- Tăng nhịp thở, giảm CO2 trong phế nang và máu động
mạch.
- Làm phát triển tuyến vú.
1.2.2. Estrogen: Trong 2-4 tuần đầu tiên của thai kỳ,
lượng estrogen trong cơ thể người mẹ chủ yếu do hoàng thể thai nghén sản xuất.
Vào tuần thứ 7 của thai kỳ, trên 50% estrogen được sản xuất từ bánh rau.Trong bánh
rau, các lá nuôi tiết ra 2 loại estrogen gồm 17-estradiol và estriol. Lượng
estrogen sản xuất tối đa khoảng 30–40 mg/ngày, trong đó estriol chiếm khoảng
85%, nội tiết tố này tăng cho đến khi đủ tháng. Tác dụng:
- Làm tăng trưởng và kiểm soát chức năng của tử
cung.
- Cùng với progesteron làm cho tuyến vú phát triển.
- Làm biến đổi thành phần hoá học của mô liên kết,
giúp cho mô này chun giãn hơn, các bao khớp mềm ra và các khớp di động dễ dàng.
- Giảm bài tiết natri, gây ứ đọng nước trong cơ thể.
1.2.3. Lactogen rau thai (human Placental Lactogen -
hPL): hàm lượng hPL tăng lên đều đặn cùng với sự phát triển của bánh rau trong
suốt thai kỳ. Các tác dụng chuyển hoá bao gồm cung cấp nguồn năng lượng cho quá
trình trao đổi chất ở mẹ và dinh dưỡng của thai nhi; kháng insulin dẫn tới làm
tăng mức insulin ở mẹ và tham gia vào quá trình tạo sữa.
1.2.4. Relaxin: Được chế tiết từ hoàng thể thai nghén,
nội sản mạc và bánh rau. Hàm lượng cao nhất đạt trong 3 tháng đầu của thai kỳ.
Relaxin tác động lên cơ tử cung, kích thích adenyl cyclase và làm giãn tử cung
1.2.5. Các tuyến nội tiết khác
- Tuyến thượng thận: Về hình thái học ít thay đổi
khi có thai, nồng độ cortisol trong huyết tương tăng đáng kể. Tuyến thượng thận
là nguồn duy nhất sản xuất cortisol khi mới có thai, về sau người ta cho rằng bánh
rau sản sinh ra nội tiết tố này khoảng 25mg mỗi ngày. Nội tiết tố này được gắn
vào globulin dưới dạng transcortin, do đó ít có tác dụng toàn thân.
Tác dụng: làm tăng đường huyết, làm thay đổi hoạt động
của kháng thể.
Aldosteron cũng do tuyến thượng thận của mẹ tiết ra,
trong khi có thai lượng nội tiết tố này tăng nhiều gây tình trạng ứ đọng nước và
muối trong cơ thể.
- Tuyến yên: trọng lượng tăng hơn bình thường từ 0,6
- 0,86 g.
FSH, LH không được chế tiết trong suốt thai kỳ, hàm
lượng prolactin tăng đều trong khi mang thai. Hiện tượng tiết sữa chỉ xuất hiện
khi hàm lượng prolactin vẫn cao và estrogen giảm.
- Tuyến giáp: to, có thể xuất hiện bướu giáp tồn tại
một thời gian.
- Tuyến cận giáp: sản xuất nội tiết tố cận giáp giúp
kiểm soát sự phân bố canxi. Trong thai kỳ thường có tình trạng hạ canxi máu do
canxi được huy động cho thai.
2. THAY ĐỔI GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ Ở BỘ PHẬN SINH DỤC
2.1. Thân tử cung.
2.1.1. Trọng lượng: Bình thường nặng 50- 60g, cuối
thai kỳ có thể tử cung nặng đến 1000g. Các yếu tố dẫn đến tăng trọng lượng tử
cung:
- Phì đại sợi cơ tử cung: sợi cơ dài thêm tới 40 lần,
rộng gấp 3-5 lần.
- Tăng sinh các mạch máu và xung huyết.
- Tăng giữ nước ở cơ tử cung.
2.1.2. Hình thể
- Ba tháng đầu tử cung có hình cầu, cực dưới phình
to, có thể sờ thấy qua túi cùng bên âm đạo, đó là dấu hiệu Noble.
- Ba tháng giữa tử cung có hình trứng, cực nhỏ ở dưới,
cực to ở trên.
- Ba tháng cuối tử cung có hình dáng phù hợp với tư
thế của thai nhi bên trong.
2.1.3. Vị trí
Khi chưa có thai, tử cung nằm trong tiểu khung. Khi
mang thai, từ tháng thứ hai trở đi mỗi tháng tử cung lớn lên, trên khớp vệ
trung bình mỗi tháng 4cm. Dựa vào tính chất này, người ta có thể tính được tuổi
thai theo công thức:
Tuổi thai (tháng)
= Chiều cao tử cung (cm)/4 + 1
2.1.4. Cấu tạo
- Cơ tử cung gồm 3 lớp. Lớp ngoài là lớp cơ dọc, lớp
trong là lớp cơ vòng, quan trọng nhất là lớp cơ giữa gọi là lớp cơ đan. Đây là
lớp cơ dày nhất, các sợi cơ đan chéo nhau về mọi hướng, trong lớp này có nhiều
mạch máu. Ở đoạn dưới không có lớp cơ đan. Sau khi sổ rau, lớp cơ này co chặt lại
tạo thành khối an toàn của tử cung để thực hiện cầm máu sinh lý. Bình thường cơ
tử cung dày 1cm, khi có thai ở tháng thứ 4-5 lớp cơ này
dày nhất có thể lên 2,5 cm, vào cuối thai kỳ lớp cơ này giảm xuống còn 0,5 – 1
cm.
- Niêm mạc tử cung: khi có thai niêm mạc tử cung biến
đổi thành ngoại sản mạc, gồm ba phần: ngoại sản mạc trứng, ngoại sản mạc tử
cung và ngoại sản mạc tử cung-rau.
2.1.5. Sinh lý
- Mật độ: khi chưa có thai mật độ tử cung chắc. Dưới
tác dụng của các nội tiết tố khi có thai tử cung mềm.
- Khả năng co bóp và co rút: khi có thai tử cung tăng
mẫn cảm, dễ bị kích thích và co bóp.
2.2. Eo tử cung: khi chưa có thai eo tử cung dài 0,5
– 1 cm, khi có thai eo tử cung giãn rộng dần, dài và mỏng ra trở thành đoạn dưới,
đến cuối giai đoạn một của cuộc chuyển dạ đẻ, đoạn dưới tử cung dài 10cm. Về giải
phẫu eo tử cung chỉ có hai lớp cơ, đó là lớp cơ dọc và lớp cơ vòng, không có lớp
cơ đan. Do đó đoạn dưới tử cung dễ vỡ nhất khi chuyển dạ và dễ chảy máu khi rau
bám thấp. Khi có thai eo tử cung mềm ra, khi khám tưởng như thân tử cung tách rời
khỏi phần cổ tử cung, đó là dấu hiệu Hegar.
2.3. Cổ tử cung: cổ tử cung mềm dần, có màu tím nhạt
do tăng tuần hoàn và phù nề toàn bộ cổ tử cung. Ngay sau khi thụ thai, chất nhầy
ống cổ tử cung đặc lại và tạo thành nút nhầy bít chặt cổ tử cung. Khi chuyển dạ
nút nhầy bong ra và được tống ra ngoài.
2.4. Âm hộ, âm đạo: có sự tăng sinh mạch máu, xung
huyết trong da và cơ của vùng tầng sinh môn và âm hộ, các mô liên kết mềm hơn.
Do hiện tượng xung huyết, niêm mạc âm đạo có màu tím nhạt và tăng tiết dịch (dấu
hiệu Chadwick).
Độ pH của môi trường âm đạo dao động từ 3,5 - 6.
2.5. Buồng trứng
Hoàng thể thai nghén chế tiết progesteron tối đa
trong 6-7 tuần đầu của thai kỳ, sau đó giảm dần và được thay thế bởi bánh rau.
Do tác dụng của hoàng thể thai nghén các nang noãn
không chín, người phụ nữ không hành kinh và không xảy ra hiện tượng phóng noãn.
Từ tháng thứ tư trở đi, hoàng thể thai nghén thoái hoá dần và teo đi.
Buồng trứng to lên, phù và xung huyết trong khi có
thai.
2.6. Vòi trứng: có hiện tượng xung huyết và mềm ra.
3. THAY ĐỔI GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ Ở CƠ QUAN KHÁC
3.1. Thay đổi ở da, cân, cơ
Ở da có thể xuất hiện các vết sắc tố, chủ yếu tập
trung ở mặt và cổ, đường trắng giữa bụng. Quầng vú và da vùng cơ quan sinh dục cũng
tăng sắc tố. Thành bụng bị giãn nở ra, các vết rạn thường thấy ở hai hố chậu, bụng,
ngực và mặt trong đùi. Các cơ thành bụng, cân cơ thẳng to giãn rộng.
3.2. Thay đổi ở vú
Trong những tuần đầu tiên của thai kỳ, người phụ nữ
thường có cảm giác căng và ngứa ở vùng vú. Sau tháng thứ 2, tuyến sữa và ống dẫn
sữa phát triển làm vú to và căng lên, quầng vú sẫm màu, các hạt Montgomery nổi
lên, núm vú to và sẫm màu, hệ thống tuần hoàn tăng, các tĩnh mạch to và nổi lên,
nhìn thấy ở dưới da gọi là lưới tĩnh mạch Haller. Sau những tháng đầu tiên có
thể gặp hiện tượng tiết sữa non.
3.3. Thay đổi trong hệ tuần hoàn
3.3.1. Máu
Khi không có thai, nước chiếm khoảng 72% trọng lượng
cơ thể, trong số này khoảng 5% ở trong mạch máu, khoảng 70% ở trong nội bào và
dịch kẽ chiếm khoảng 25%.
Khi có thai lượng dịch nội bào không thay đổi, nhưng
thể tích trong lòng mạch và dịch kẽ đều tăng. Thể tích huyết tương tăng, đạt
cao nhất chung quanh tuần lễ thứ 32. Thể tích trung bình khi không có thai là
2600ml, thể tích cao nhất ở người có thai con so là 3850ml gia tăng khoảng 41%,
ở con rạ là 4100ml gia tăng khoảng 57%. Tỷ lệ huyết sắc tố giảm, Hematocrite giảm
(bình thường khoảng 39,5% còn khoảng 35,8% khi thai 40 tuần). Máu có xu hướng
loãng, làm cho thiếu máu nhược sắc và giảm áp lực thẩm thấu. Bạch cầu tăng rõ rệt
từ 7x109/l lúc không có thai lên đến 10x109/l ở giai đoạn cuối thai nghén, chủ
yếu tăng đa nhân trung tính. Tiểu cầu gia tăng trong suốt thời kỳ có thai và thời
kỳ hậu sản (300 - 400x109/l).
Hệ thống đông máu: Trong lúc có thai có tình trạng tăng
đông, có lẽ nhằm tránh nguy cơ chảy máu ở giai đoạn sổ rau. Nồng độ Fibrinogen
tăng, bình thường 2,6g/l tăng đến 4g/l.
3.3.2. Tim mạch
- Cung lượng tim tăng 50%, cao nhất vào tháng thứ bảy
do:
+ Nhu cầu oxy tăng
+ Thể tích máu tăng
+ Diện tích tưới máu tăng
- Nhịp tim: tăng khoảng 10 nhịp /phút
- Có thể có những thay đổi trong tiếng tim. Tiếng thổi
tâm thu có thể xuất hiện ở khoảng 90% phụ nữ có thai.
- Mạch máu: huyết áp động mạch không tăng, huyết áp
tĩnh mạch chi dưới tăng do tĩnh mạch chủ dưới bị tử cung mang thai chèn ép, có
thể xuất hiện trĩ và giãn tĩnh mạch chi dưới.
- Hội chứng tụt huyết áp do nằm ngửa: Ở những tháng
cuối của thai kỳ, tử cung đè vào tĩnh mạch chậu dẫn đến tuần hoàn tĩnh mạch về
tim bị giảm, do đó giảm cung lượng tim thứ phát, gây ra hội chứng tụt huyết áp đáng
kể ở khoảng 10% thai phụ..
3.4. Hô hấp
- Lồng ngực: trong thai kỳ góc sườn hoành mở rộng, đường
kính ngang của lồng ngực tăng khoảng 2 cm, cơ hoành bị đẩy lên cao khoảng 4 cm.
- Thông khí: Có hai thay đổi quan trọng trong khi có
thai là giảm thể tích dự trữ thở ra (do cơ hoành nâng lên) và tăng thông khí,
thể tích khí lưu thông cho một nhịp thở và hấp thu ôxy/phút theo tiến triển của
thai nghén.
- Tần số thở: tăng vừa phải, thai phụ thường thở
nhanh và nông, đặc biệt ở những người đa thai, đa ối.
3.5. Tiết niệu
- Thận: khi có thai lưu lượng máu qua thận tăng từ
200ml/phút lên 250ml/phút. Tốc độ lọc cầu thận tăng khoảng 50%, tăng nhẹ kích
thước của thận
- Nồng độ creatinin trong huyết tương và urê thường
giảmnhẹ.
- Đài bể thận và niệu quản thường giãn và giảm nhu động
do bị tử cung mang thai chèn ép và tác động của progesteron. Sự giãn và giảm
nhu động này có thể dẫn đến đánh giá sai về thể tích, chất lượng nước tiểu, tăng
tỷ lệ nhiễm khuẩn và thay đổi hình ảnh đường tiết niệu.
- Bàng quang: Trong những tháng đầu có thể bị kích
thích gây tình trạng đái rắt, những tháng sau có thể chèn ép cổ bàng quang gây
bí đái.
3.6. Tiêu hoá
Niêm mạc lợi có thể dày lên, mềm ra và tăng sinh tuần
hoàn, dễ chảy máu khi chấn thương.
Trong ba tháng đầu sản phụ thường buồn nôn, nôn, tăng
tiết nước bọt.
Vị trí của dạ dày và ruột non thay đổi do tử cung to
lên trong thai kỳ.
Thời gian tiêu hoá ở dạ dày và ruột non thường kéo dài
hơn do ảnh hưởng của các nội tiết tố hoặc yếu tố thực thể. Có thể xuất hiện chứng
táo bón, trĩ.
Chứng ợ nóng
cũng khá phổ biến ở phụ nữ có thai do hiện tượng trào ngược của acid vào phần dưới
của thực quản.
3.7. Hệ thống cơ xương khớp
- Tăng tính di động của các khớp cùng chậu, cùng cụt
và khớp mu - có thể là do ảnh hưởng của thay đổi hormone. Trong thời kỳ cuối của
thai nghén phụ nữ có thai có thể có cảm giác đau, tê, và yếu ở các chi trên .
- Cột sống ưỡn ra trước trong những tháng cuối thai
kỳ.
3.8. Thần kinh
Thai phụ có thể có tình trạng giảm sự chú ý, tập
trung và trí nhớ trong suốt giai đoạn thai nghén và giai đoạn đầu của thời gian
sau đẻ, ngoài ra cũng gặp các hiện tượng khó ngủ, thức giấc nhiều lần, giấc ngủ
ngắn hơn và giảm hiệu suất của giấc ngủ nói chung.
3.9. Một số thay đổi khác
- Nhiệt độ: trong 3 tháng đầu do tác dụng của hoàng
thể thai nghén nên thân nhiệt cao trên 370C, từ tháng thứ tư nhiệt độ trở lại bình
thường.
- Trọng lượng cơ thể: có thể tăng đến 25% so với khi
không mang thai, trung bình khoảng 12 kg. Tăng cân chủ yếu xảy ra vào nửa sau của
thời kỳ thai nghén, khoảng 0,5 kg mỗi tuần.Hiện tượng tăng cân là do sự tăng trưởng
của khối thai, các tạng của mẹ tăng dự trữ mỡ, protein và sự gia tăng thể tích
máu, dịch kẽ của mẹ.
+ Vú: 1 - 1,5 kg
+ Tử cung: 0,5 - 1kg
+ Thai, bánh rau: 5kg
+ Dự trữ mỡ dưới da, dự trữ protein: 4 -4,5 kg
+ Nước điện giải: 1- 1,5 kg
- Chuyển hoá: trong thai nghén người ta quan sát thấy
chuyển hoá cơ bản cao, nhịp tim, hô hấp tăng để thích hợp với các đòi hỏi của
thai.
+ Nhu cầu năng lượng cần khoảng 2500 cal/ ngày.
+ Thai nghén bình thường có một số đặc điểm chuyển
hoá sau: giảm đường huyết trung bình khi nhịn ăn, tăng đường huyết sau bữa ăn và
tăng insulin huyết. Những đặc điểm này đảm bảo việc cung cấp glucose liên tục tới
thai nhi. Nếu tuyến tuỵ không cung cấp đủ insulin có thể dẫn đến đái tháo đường
thai nghén.