Bệnh não do thiếu oxy - thiếu máu cục bộ (ngạt chu
sinh) là kết quả của những sự kiện xảy ra trước sinh, trong sinh và ngay sau
sinh. Những sự kiện này sẽ gây ra:
- Tình
trạng thiếu oxy của thai còn nằm trong tử cung và của trẻ sơ sinh (giảm oxy)
khi sinh ra.
- Thay đổi
sự trao đổi khí (tăng CO2).
- Giảm
tưới máu của nhiều cơ quan khác nhau (đặc biệt là thiếu máu cục bộ tại não)
1. ĐỊNH
NGHĨA
Bệnh não thiếu oxy hiện nay được định nghĩa dựa trên
tập hợp các tiêu chuẩn sau:
- Suy
thai cấp (bất thường nhịp tim thai, nước ối có phân su)
- Apgar
< 3 trong ít nhất 5 phút
- Nhiễm
toan chuyển hóa nặng (PH < 7, Kiềm dư <16 mmol/l
- Triệu
chứng thần kinh: co giật, giảm trương lực cơ, giảm mức độ tỉnh táo
- Tổn
thương đa phủ tạng ngay lập tức ở giai đoạn sơ sinh ( đặc biệt tổn thương gan và
thận)
Loại trừ tất cả những nguyên nhân khác của bệnh lý não
bẩm sinh hoặc chuyển hóa Cần nhấn mạnh 2 điểm:
- Chỉ dựa
vào chỉ số APGAR là không đủ để chẩn đoán.
- 20 %
di chứng thần kinh ở trẻ sơ sinh đủ tháng là do ngạt chu sinh.
2. NGUYÊN
NHÂN: 2 nhóm nguyên nhân chính:
2.1. Sang
chấn sản khoa
- Tụ máu
sau nhau, nhau tiền đạo, sa dây rốn, ngôi bất thường.
- Sinh
khó do thai to, bất tương xứng giữa khung chậu mẹ và thai, chuyển dạ kéo dài,
những bất thường trong chuyển dạ kể trên càng nặng nề nếu thai nhi hoặc mẹ đã có
vấn đề bệnh lý (sơ sinh già tháng, phát triển bất thường trong tử cung, mẹ bị đái
đường).
2.2. Nhiễm
trùng sơ sinh sớm truyền bằng đường mẹ - thai: có thể làm rối loạn huyết động học
của não bộ gây tổn thương não bộ trước sinh.
3. TRIỆU
CHỨNG LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG
3.1. Lâm sàng
Trong trường hợp điển hình có các triệu chứng:
- Ít hoặc
không có triệu chứng khu trú.
- Tổn
thương hoàn toàn não bộ.
- Rối
loạn thần kinh giao cảm.
- Có mối
liên quan rõ rệt giữa lâm sàng và giải phẫu, có 3 thể lâm sàng theo mức độ từ
nhẹ đến nặng (phân loại Sarnat).
3.2. Cận lâm
sàng: có giá trị chẩn đoán và tiên lượng:
- EEG có
giá trị chẩn đoán và tiên lượng.
- Siêu âm
qua thóp: ít cung cấp thông tin, có thể thấy xẹp não thất chứng tỏ tình trạng
phù não.
-
Scanner não khẳng định những tổn thương sau: giảm đậm độ lan tỏa, mất sự
phân biệt chất trắng - chất xám rõ nhất vào ngày thứ 3, ngày 10-14 xuất hiện
teo não.
- MRI càng
có giá trị chẩn đoán tổn thương não.
3.3 Các thể
lâm sàng
Dấu hiệu lâm sàng tóm tắt theo phân loại Sarnat như
sau:
3.3.1. Thể 1: (thể nhẹ) thường hay gặp nhất (4- 6 %
trẻ sinh ra), biểu hiện có phù não (chính tình trạng phù não gây ra những dấu
hiệu lâm sàng, hồi phục nhanh), tăng trương lực cơ tứ chi, giảm trương lực cơ
thân và cơ cổ, cử động tự phát biến mất, thay vào đó là tình trạng kích thích.
Tiếng khóc bình thường (ít khi khóc thét), đáp ứng kém với kích thích. Có thể có
cử động bất thường hai mắt. Thể này không có co giật, cũng không có rối loạn rõ
phản xạ nguyên thủy tủy sống và không có
rối loạn ý thức.
3.3.2. Thể 2: (thể trung bình) hiếm gặp hơn so với
thể 1 (2% trẻ sinh ra). Thể này thường có tổn thương vừa vỏ não vừa phù não. Dấu
hiệu lâm sàng bao gồm tăng trương lực cơ kèm tăng kích thích và co giật, thường
xuất hiện 12 - 24 giờ sau với triệu chứng giảm trương lực cơ toàn bộ, phản xạ
nguyên thủy tủy sống biến mất, không nuốt được, rối loạn thần kinh thực vật (hạ
huyết áp, thở không đều, ngưng thở). Tiên lượng nặng hơn.
3.3.3. Thể 3: (thể nặng) hiếm gặp (0,5% trẻ sinh ra ở
những nhà hộ sinh được trang bị tốt). Thể này có tổn thương hoại tử tế bào thần
kinh, chính tổn thương này gây tình trạng hôn mê có thể kèm co giật liên tục làm
ý thức của trẻ không trở về bình thường. Triệu chứng xuất hiện vài giờ sau
sinh. Xét nghiệm điện não đồ là cần thiết cho thấy hình ảnh bệnh lý. Tử vong
1/2 trường hợp.
4. ĐIỀU
TRỊ
4.1. Trước
sinh: Làm tất cả mọi biện pháp để làm giảm thời gian thiếu oxy.
4.2. Trong
phòng sinh: Hồi sức ngay tức thì sau sinh để tránh thiếu oxy thiếu máu cục bộ
sau sinh.
4.3. Xử trí
tiếp theo
Những biện pháp cần thực hiện như sau:
- Duy
trì huyết áp, pH, PaO2, đường máu, canxi huyết.
- Điều
trị cắt cơn co giật và ngăn ngừa tái phát: Diazepam trong cơn co giật (0,5
mg/kg/liều IV hoặc đường hậu môn), Phenobarbital (liều tấn công: 20mg/kg, nhắc
lại 48 giờ sau bởi một liều duy trì: 5 mg/kg). Nếu không thể khống chế được cơn
co giật, sử dụng Phenylhydantoin (liều tấn công từ 15-20 mg/kg, tiếp đó
4-8mg/kg/ngày).
- Chống
phù não bằng cách hạn chế cung cấp nước, duy trì PaO2 từ 35 – 40 mmHg bằng cách
thông khí nhân tạo. Duy trì áp lực trong não bằng cách duy trì huyết áp ở mức
cao trong giới hạn bình thường.
- Theo
dõi trẻ để phát hiện các tình trạng tổn thương thận, gan, ruột hoặc rối loạn đông
máu.
- Người
ta đang nghiên cứu chất bảo vệ thần kinh.
- Hạ
nhiệt toàn thân và hạ nhiệt ở đầu (33 độ) bằng phương pháp làm lạnh đang được
nghiên cứu và kết quả chưa rõ ràng. Vào thời điểm hiện nay, các khuyến cáo cho
rằng vẫn nên duy trì thân nhiệt của trẻ ở mức bình thường.