1. ĐẠI CƯƠNG
Nhiễm trùng trong thời kỳ sơ sinh có thể phân làm 2
loại: nhiễm trùng sơ sinh sớm truyền bằng đường mẹ-thai và nhiễm trùng mắc phải
sau sinh.
Sức đề kháng trẻ sơ sinh đối với nhiễm trùng yếu kém
do đáp ứng miễn dịch thể dịch, miễn dịch tế bào chưa phát triển đầy đủ. Ngoài
ra, trẻ còn dễ bị nhiễm trùng vì da trẻ non yếu, nhiều mạch máu, pH da kiềm, niêm
mạc đường tiêu hóa dễ bị xâm nhập.
Nhiễm trùng là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong thời
kỳ sơ sinh với tỷ lệ 13 – 15 % ở các nước trên thế giới. Ở Việt Nam tỷ lệ nhiễm
trùng sơ sinh còn cao. Theo dõi xác định sớm những yếu tố nguy cơ, phát hiện sớm
những biến đổi lâm sàng, những biến đổi về huyết học có thể phát hiện sớm bệnh
nhiễm trùng sơ sinh cho phép xử trí sớm, góp phần đáng kể giảm tỷ lệ tử vong đối với những trẻ bị nhiễm trùng.
2. NGUYÊN
NHÂN VÀ CÁCH LÂY NHIỄM
2.1. Nguyên
nhân
Ba vi khuẩn thường gây nhiễm trùng sơ sinh sớm:
- Liên
cầu khuẩn nhóm B, Colibacille, Listéria.
- Những
vi khuẩn kỵ khí và ái khí khác cũng có thể gây nhiễm trùng truyền bằng đường mẹ
- thai nhưng với tần suất ít gặp hơn như: Haemophilus, Méningococcus,
Staphylococcus, Pneumococcus....
2.2 Cách lây
nhiễm
2.2.1. Lây nhiễm trước sinh
- Sớm:
truyền bằng đường máu, qua nhau thai.
- Chậm
> 5 tháng:
+ Bằng đường máu: vi khuẩn, nhiễm trùng huyết ở phụ
nữ mang thai do E.Coli, Listeria.
+ Bằng đường tiếp xúc, viêm màng ối.
2.2.2. Lây nhiễm trong khi sinh
- Do
nhiễm trùng ối có hoặc không ối vỡ sớm > 6 giờ (thường do liên cầu khuẩn nhóm
B).
- Lây
nhiễm trong khi lọt qua đường sinh dục mẹ.
- Lây
nhiễm qua những dụng cụ trong khi can thiệp những thủ thuật sản khoa.
3. LÂM SÀNG
VÀ CẬN LÂM SÀNG
3.1. Tiền sử
- Mẹ có
sốt trước và trong vòng 3 ngày sau sinh.
- Tiền
sử nhiễm trùng đường niệu – sinh dục.
- Ối vỡ
trên 12 giờ hoặc dịch ối bẩn và hôi.
- Đẻ
non không có nguyên nhân rõ ràng.
- Đẻ có
can thiệp thủ thuật sản khoa.
3.2. Lâm sàng
- Rối
loạn thân nhiệt.
- Rối
loạn tiêu hóa như bú chậm, bú kém hoặc bỏ bú, nôn hoặc ỉa chảy, chướng bụng.
- Ngủ
li bì, rối loạn trương lực cơ
- Vận động
yếu, không đối xứng 2 bên.
- Rối
loạn hô hấp, tuần hoàn
- Có thể
có dấu xuất huyết, vàng da, cứng bì, gan lách to...
3.3. Cận lâm
sàng
- Vi khuẩn học:
+ Soi tươi, nhuộm Gram, nuôi cấy dịch ối, dịch hầu họng,
dịch dạ dày, dịch ống tai ngoài hoặc phân su, cấy mẫu bánh nhau.... Xét nghiệm
này cho phép xác định nhanh vi khuẩn gây bệnh.
+ Bệnh phẩm vi khuẩn học trung ương gồm cấy máu, cấy
nước tiểu, cấy dịch não
tủy.
+ Kháng nguyên hòa tan vi khuẩn: có thể tìm được Liên
cầu khuẩn nhóm B,
Colibacille mang kháng nguyên K1.
- Huyết học và sinh hóa
+ CTM có giá trị gợi ý nhiễm trùng sơ sinh sớm nếu
như:
Số lượng bạch cầu giảm < 5 000/mm3 hoặc tăng >
25 000/mm3; có bạch cầu non trong máu ngoại vi > 10% của toàn bộ bạch cầu hoặc
>20% của số lượng bạch cầu trung tính.
Giảm tiểu cầu<100 000/mm3
+ Tăng Fibrin>3,8g/l ngày thứ nhất và 4g/l nếu
sau ngày thứ nhất.
+ CRP > 20mg/l
+ Những xét nghiệm khác không đặc hiệu cho chẩn đoán
nhưng nói lên tiên lượng bệnh: nhiễm toan chuyển hóa, CIVD, tăng Bilirubine máu
sớm.
4. CÁC DẠNG
LÂM SÀNG
4.1. Nhiễm
trùng huyết
- Da tái,
trụy mạch, hạ thân nhiệt.
- Ban
xuất huyết, gan lách to, vàng da.
- Co giật,
mất nước, cứng bì.
- Bú kém.
4.2. Viêm màng
não mủ
- Đơn
thuần hoặc kết hợp với dạng nhiễm trùng huyết.
- Chẩn đoán
khó vì không có dấu hiệu viêm màng não mủ rõ ràng.
- Co giật,
thóp phồng, hở đường khớp sọ, nôn mửa.
- Thường
sốt cao hơn là hạ thân nhiệt.
- Rên è
è, ngủ lịm, hôn mê.
4.3. Nhiễm
trùng khu trú
- Viêm
phổi: là dạng hay gặp nhất trong nhiễm trùng mẹ-thai.
- Nhiễm
trùng đường tiểu, Viêm ruột hoại tử.
- Viêm
phúc mạc, Viêm xương-tủy xương, Viêm kết mạc mắt.
4.4. Nhiễm
trùng tại chỗ
- Nhiễm
trùng da
- Nhiễm
trùng rốn
- Nhiễm
trùng vú.
- Iả chảy.
5. ĐIỀU
TRỊ
5.1. Điều
trị nguyên nhân
Dùng kháng sinh phổ rộng khi chưa có kết quả vi khuẩn
học.
Khi xác định được vi khuẩn, kháng sinh điều trị chỉ định
theo kháng sinh đồ. Có nhiều tác giả khuyên nên bắt đầu bằng 2 kháng sinh kết hợp
(ampicilline + aminoglycosides) để tránh vấn đề vi khuẩn kháng thuốc và chọn lọc
thuốc. Sau đó nếu lâm sàng có chuyển biến nhiễm trùng nặng sẽ phối hợp thêm một
kháng sinh thứ 3 thuộc nhóm Céphalosporines thế hệ thứ 3.
Một số tác giả khuyên nên phối hợp 3 thứ kháng sinh
cùng một lúc nếu lâm sàng có biểu hiện rõ nhiễm trùng rồi sau đó giảm bớt một
thứ kháng sinh tùy vào kết quả xét nghiệm vi khuẩn học.
Liều lượng và khoảng cách tiêm thuốc đôi khi dùng liều
duy nhất tùy thuộc vào sự trưởng thành của chức năng gan và khả năng lọc của cầu
thận trong giai đoạn này.
Nếu kết quả xét nghiệm vi khuẩn âm tính và trẻ không
có triệu chứng lâm sàng, có thể dừng kháng sinh sau 2-3 ngày điều trị. Trong những
trường hợp khác, cần tiếp tục điều trị kháng sinh 10 ngày (15 - 21 ngày đối với
viêm màng não, và dài hơn đối với E.Coli).
Điều trị hỗ trợ: thở oxy, nằm lồng ấp, truyền dịch
nuôi dưỡng, truyền dịch cao phân tử như plasma tươi trong trường hợp có sốc.