1. Hình thái giải phẫu, tổ chức học và sinh lý của vùng quanh răng:
Vùng quanh răng gồm: Lợi, dây
chằng, xương ổ răng.
1.1 Lợi
Lợi gồm lợi tự do và lợi dính. Lợi tự do gồm nhú lợi và viền lợi, áp sát
vào răng nhưng không dính vào răng tạo nên một túi ảo sâu từ 0,5 đến 1,5 ly gọi
là túi lợi sinh lý, đáy túi lợi là lợi dính.
Lợi dính là phần tiếp theo lợi tự do, gồm 2 phần: Phần trên bám vào chân
răng và phần dưới bám vào xương ổ răng.
Mặt ngoài của lợi dính và lợi tự do được phủ bởi biểu mô sừng hoá. Lợi
dính có màu hồng nhạt hơn lợi tự do. Về vi thể lợi cấu tạo bởi lớp biểu mô dính
và tổ chức liên kết. Màu của lợi phụ thuộc vào mật độ mao mạch và các hạt sắc
tố.
1.2. Dây chằng quanh răng
Là những bó sợi keo có nguồn gốc trung mô, có chức năng giữ răng trong ổ
răng và vùng quanh răng, gồm các nhóm:
Nhóm cổ răng hay nhóm mào ổ răng
Nhóm ngang
Nhóm chéo
Nhóm cương răng
Nhóm giữa các chân răng.
1.3. Xương ổ răng
Là một bộ phận của xương hàm, gồm lá xương thành trong huyệt ổ răng gọi
là lá cứng (lamina dura) có nhiều lỗ cho mạch máu và thần kinh từ xương hàm đi
vào dinh dưỡng cho răng và vùng quanh răng, tổ chức xương chống đỡ xung quanh ổ
răng phía ngách lợi, hàm ếch và lưỡi là tổ chức xương đặc hay lớp vỏ. Giữa lá
xương thành trong huyệt răng và vỏ là xương xốp.
Xương ổ răng có quá trình tiêu và bồi đắp cân bằng sinh lý. Trong trường
hợp bệnh lý, quá trình tiêu xương nhanh và mạnh hơn quá trình bồi đắp dẫn đến tiêu
xương
ổ
răng và
xương bị phá huỷ dần.
1.4. Xương răng
Được hình thành trong quá trình hình thành thân răng, là dạng đặc biệt
của xương, có thành phần hữu cơ và vô cơ chiếm tỷ lệ ngang nhau. Xương răng bao
phủ ngà chân răng dày nhất ở vùng cuống mỏng nhất ở vùng cổ răng. Xương răng
được đắp dày thêm từ từ và đều đặn theo tuổi ngoài ra còn do các yếu tố khác
như: Kích thích của quá trình viêm, hoá chất và do chuyển hoá.
Về chức phận xương răng tham gia vàn sự hình thành hệ thống cơ học nối
liền răng với xương răng, cùng với xương ổ răng giữ bề rộng cần thiết cho vùng
dây chằng quanh răng, bảo vệ ngà răng, tham gia sửa chữa một số trường hợp tổn
thương ngà chân răng.
1.5. Dinh dưỡng cho vùng quanh
răng
Đa số động mạch đến từ động mạch gốc ở vùng cuống răng, sau đó phân
nhánh vào tuỷ răng qua lỗ cuống răng và vào vùng quanh răng. Ở khe quanh răng
có mạng lưới dày đặc mạch máu như một cái sọt bao quanh chân răng. Ngoài ra có
các mạch máu từ phía tiền đình lợi, hàm ếch, lưỡi chạy hướng lên phía bờ lợi,
toả các nhánh vào phần lợi, dây chằng cũng như xương thành ngoài bao quanh ổ
răng.
. Khái niệm, dịch tễ học và phân loại bệnh quanh răng
Bệnh quanh răng được loài người biết từ lâu với đặc điểm là túi mủ chân
răng. Bệnh rất thường gặp, đứng thứ hai sau bệnh sâu răng, chiếm tỷ lệ cao
trong các bệnh răng hàm mặt. Theo các tác giả châu âu bệnh quanh răng chiếm 35%
dân số tuổi từ 18 trở lên. Bệnh quanh răng là bệnh của các tổ chức giữ răng
trong xương hàm (lợi, dây chằng, xương ổ răng), nó có tác dụng bảo vệ và cùng
với răng thực hiện các chức năng nhai và phát âm.
Hiện nay người ta phân loại dựa theo yếu tố bệnh căn và quá trình bệnh
lý bao gồm :
-
Viêm lợi:
Tổ chức viêm chỉ khu trú ở lợi.
-
Viêm
quanh răng: Tổ chức viêm lan rộng, ngoài phần lợi nó còn phá huỷ dây chằng
quanh răng, xương ổ răng và xương răng.
-
Hư quanh
răng: Là hiện tượng thoái hoá các tổ chức quanh răng mà không có viêm tiên
phát.
-
Teo vùng
quanh răng: Là tiêu các tổ chức quanh răng do mất tế bào và các sản phẩm của nó
Bệnh quanh răng thường gặp ở người lớn, đặc biệt là những người ở độ
tuổi trung niên trở lên. Có nhiều chỉ số giúp đánh giá bệnh vùng quanh răng,
trong đó có những chỉ số thường dùng như:
Chỉ số vệ sinh răng miệng đơn
giản (simplified
oan hygine index (OHI- S) của Greene
và Vermillion, 1964) đánh giá tình trạng vệ sinh răng miệng của cá nhân và cộng
đồng trong điều tra dịch tễ học khám 6 răng đại diện là 16, 21, 24, 36, 41, 44.
Khám phát hiện cao răng và mảng bám răng.
Chỉ số lợi (gingival index - GI của Loe và
Silness, 1965) đánh giá tình trạng
lợi ở các răng 16, 21, 24, 36, 41, 44 phát hiện tình trạng lợi viêm với
các mức độ nhẹ, vừa và nặng
Chỉ số quanh răng của Russell (Periodontal index - PI của
Russell, 1956) đánh giá tất cả tình trạng lợi của các răng
về tình trạng viêm và xương ổ răng bị phá huỷ ở các mức độ
Chỉ số nhu cầu điều trị (Community Periodontal Index of
treatment needs - CPITN của Ainamo,
1978 - 1982) chỉ số dựa vào sự đánh giá những răng biểu thị về tình trạng lợi
viêm, độ sâu của túi quanh răng, sự có mặt của cao răng trên và dưới lợi. Chia
2 hàm thành 6 vùng, khám mỗi vùng 1 - 2 răng đại diện mà ở đó tình trạng bệnh
lý nặng nhất nhằm đánh giá nhu cầu điều trị cộng đồng, hoạch định nhân lực và
kinh phí trang thiết bị cho việc chăn sóc răng miệng cộng đồng.
3. Viêm lợi
Viêm vì vì viêm khu trú ở lại
không ảnh hưởng tới dây chằng ở xương ổ răng.
3.1 Nguyên nhân
Chủ yếu do vi khuẩn mảng bám răng thường là cầu khuẩn và trực khuẩn, vi
khuẩn sợi, do virus, do sang chấn, do các tác nhân lý hóa học, do mọc răng, do
các biến chứng của sâu răng, do thay đổi nội tiết...
3.2. Lâm sàng
Rất đa dạng, viêm phá huỷ nhú lợi, viêm lợi và lợi bám dính, có thể viêm
đỏ, viêm thanh dịch, viêm loét, viêm phì đại, ngoài ra có thể gặp viêm đặc hiệu
do gan và giang mai. Khi lợi viêm thường có màu đỏ do xung huyết, đau, dễ chảy
máu khi ăn nhai, hoặc khi chải răng, khi mút chíp, đôi khi chảy máu tự nhiên.
3.3. Tiến triển
Nếu điều trị đúng phương pháp và vệ sinh răng miệng tốt lợi sẽ trở về
bình thường. Nếu không điều trị hoặc điều trị không đúng, vệ sinh răng miệng
kém sẽ dẫn đến viêm mãn tính và một số trường hợp có thể tiến triển tới viêm
quanh răng.
3.4. Điều trị trong thời gian
viêm cấp tính
Tại chỗ: Bơm rửa bằng H2O2 3 - 6 thể tích hoặc tím
gential 1 - 2%. Sau 1 - 2 ngày lấy cao răng triệt để và giữ vệ sinh răng miệng.
Toàn thân : Có thể dùng kháng
sinh toàn thân trong một số trường hợp cần thiết.
4. Viêm quanh răng
4.1. Khái niệm về viêm quanh răng
Viêm
quanh răng là bệnh viêm và phá hủy tổ chức quanh răng. Làm lung lay và ngày
càng lung lay một nhóm răng hoặc cả hệ thống răng.
4.2. Nguyên nhân
Do yếu tố kích thích tại chỗ là vi khuẩn ở mảng bám răng và phản ứng tự
vệ của lợi, trước hết duy trị viêm nhiễm ở túi lợi lâu ngày dẫn tới phá hủy
phần lợi dính vào răng, túi lợi sâu xuống gây tiêu xương ổ răng. Trong nguyên
nhân này có vai trò của đáp ứng miễn dịch (phản ứng túc chủ).
Do các bệnh toàn thân làm yếu tổ chức quanh răng dẫn đến viêm quanh
răng: Đái tháo đường, xơ gan, nhiễm độc toàn thân, bệnh máu, bệnh động kinh,
tâm thần.
Do khớp cắn sang chấn: Răng bị lệch lạc hoặc do sai sót trong điều trị (hàn cao, cầu, chụp răng không đúng quy cách...)
4.3. Lâm sàng
4.3.1. Thời kỳ đầu
Lợi nề đỏ, chảy máu lợi khi chải răng, hơi thở hôi, có mảng bám răng và
cao răng bám vào răng cả ở phía trên lợi và phía dưới lợi dần tới hình thành
túi lợi bệnh lý ( >l,5 mm), răng lung lay nhẹ.
Có một số trường hợp thấy răng cửa ngày càng thưa ra kèm theo hơi thở
nặng mùi, dần dần có túi lợi bệnh lý.
Chụp X quang thấy hình ảnh tiêu
xương ổ răng.
Những triệu chứng trên xuất hiện ở từng nhóm răng hoặc cả hai hàm răng.
Lúc người khoẻ, dinh dưỡng tốt, được nghỉ ngơi thì biểu hiện nhẹ. Những lúc làm
việc nhiều người mệt mỏi, tinh thần căng thẳng thì biểu hiện nặng. Chức năng ăn
nhai bị ảnh hưởng. Thời kỳ này kéo dài vài năm thì chuyển sang thời kỳ viêm
nặng.
4.3.2. Thời kỳ viêm nặng
Túi lợi bệnh lý ngày càng sâu. Khi túi lợi sâu từ 4mm trở lên thì tại
túi lợi luôn luôn có quá trình viêm mãn tính xen kẽ những đợt cấp tính làm bệnh
nhân đau nhức. Chảy máu chân răng thường xuyên hơn, có nhiều mủ trong túi lợi,
răng lung lay nhiều hơn.
Khi xương ổ răng tiêu quá 1/2 chân răng thì viêm quanh răng phát triển
nhanh hơn. Do tiêu xương ổ răng, hở cổ răng nên ăn uống nóng lạnh làm buốt chân
răng hoặc bị sâu răng thứ phát hay viêm tuỷ ngược dòng.
Chức năng ăn nhai ở giai đoạn này giảm rõ rệt, nếu không được điều trị
đúng phương pháp bệnh nhân sẽ mất dần răng.
Trong cả hai thời kỳ bệnh nhân thường không sất hoặc chỉ sất nhẹ trong
những đợt cấp.
4.3.3. Các thể lâm sàng
Viêm quanh răng cấp tính ở người trẻ: Gặp ở tuổi thiếu niên và thanh
niên. Bệnh tiến triển nhanh dẫn đến mất răng nhanh chóng (hiếm gặp).
Viêm quanh răng tiến triển nhanh: Gặp ở người trưởng thành từ 18 - 30
tuổi Viêm có thể khu trú ở 1 vùng hoặc cả hàm, có thể tiêu xương theo cả hai
chiều ngang và sâu, tiến triển nhanh.
Viêm quanh răng mãn tính: Gặp ở tuổi trung niên, tiến triển chậm từng
đợt thời gian dài, điều trị đúng và kịp thời kết quả tốt.
Viêm quanh răng kèm viêm lợi loét
hoại tử. Thể này nặng cần điều trị tích cực.
4.4. Chẩn đoán - điều trị và phòng bệnh
4.4.1. Chẩn đoán
Chẩn đoán phân biệt với viêm lợi: Bệnh chỉ khu trú ở lợi, dây chằng và
xương ổ răng bình thường.
Chẩn đoán xác định: Dựa vào các
tiêu chuẩn sau:
-
Lợi viêm,
chảy máu, có túi lợi bệnh lý.
-
Răng lung
lay cả nhóm hoặc cả hàm.
-
Chụp X.
quang có hình ảnh tiêu xương ổ răng (nếu có điều kiện nên chụp toàn cảnh để
đánh giá đầy đủ hơn).
4.4.2. Điều trị
Loại trừ kích thích tại chỗ: Làm sạch răng bằng cách lấy cao răng triệt
để và hướng dẫn bệnh nhân phương pháp vệ sinh răng miệng. Sửa hàm kênh, sửa hàm
giả sai kỹ thuật, chữa nhổ các răng và chân răng cần chữa nhổ.
Dùng kháng sinh trong những đợt cấp: (Kháng sinh có tác dụng tốt với
viêm quanh răng là Tetraxycline, Rodogyl...).
Điều trị các bệnh toàn thân nếu
có.
Chỉnh khớp răng nếu có khớp cắn
sang chấn.
4.4.3. Phòng bệnh
Trong thời kỳ thai nghén người mẹ cần ăn uống đủ chất để thai nhi phát
triển tốt trẻ sơ sinh cần nuôi dưỡng đầy đủ bằng sữa mẹ, trẻ học tiểu học,
trung học cơ sở cần hướng dẫn phương pháp chải răng, vệ sinh răng miệng.
Tuổi dậy thì cần đặc biệt quan
tâm giữ vệ sinh răng miệng, chữa các răng sâu.
Tuổi trưởng thành: Duy trì chăm sóc răng miệng cá nhân tại nhà và khám
chữa răng định kỳ 6 tháng 1 lần.