1. MỞ ĐẦU
Thiếu máu trong thai nghén chiếm từ 10 - 15% thiếu máu
nặng chiếm 1/5 trường hợp tổng số thiếu máu trong thai kỳ. Bệnh lý thiếu máu sẽ
làm tăng tỷ lệ tử vong mẹ và thai nhi (có thể suy thai, đẻ non...)
2. SỰ
THAY ĐỔI HUYẾT HỌC LÚC MANG THAI
Trong cơ thể của sản phụ mang thai, luôn có sự tăng
thể tích huyết tương biểu hiện ngay ở ba tháng đầu của thai kỳ, thường tăng
trong khoảng từ 30 - 50% lúc cuối thời kỳ thai nghén). Thường có sự tăng nhiều
thể tích huyết tương hơn là huyết cầu (đặc biệt là hồng cầu) dẫn đến sự giảm
hematocrit, chính vì vậy không thể dựa vào yếu tố hematocrit để chẩn đoán tình
trạng thiếu máu.
Chuyển hóa sắt cũng biến đổi trong lúc có thai và
nhu cầu của nó thường tăng lên:
- Do tăng
tạo hồng cầu.
- Do nhu cầu của thai, thay đổi từ 200 - 300 mg
và tăng gấp đôi trong trường hợp song thai.
Việc không hành kinh trong lúc có thai cũng làm hạn
chế sự tiêu thụ sắt. Ngoài ra, hấp
thụ sắt khi có thai tăng từ 30 - 90% và tình trạng cần
huy động sắt dự trữ của mẹ đã cho phép giữ được cân bằng cung cầu trong giai đoạn
cuối của thai kỳ nếu không có tình trạng thiếu sắt trước khi có thai hay tiêu
thụ sắt bất thường do đa thai hay tình trạng chảy máu trong thai kỳ. Hiện tượng
mất máu trong lúc sổ rau hay cho con bú trong thời kỳ hậu sản còn làm tăng nhu
cầu sử dụng sắt và chính các lần mang thai quá gần nhau sẽ không cho phép tái tạo
lại kho dự trữ sắt của sản phụ.
Một sự thay đổi khác trong thời kỳ mang thai là chuyển
hóa acide folic. Acide folic là một đồng yếu tố cần cho việc tổng hợp AND. Nếu
việc tổng hợp này bất thường sẽ có ảnh hưởng lên nguyên hồng cầu, nó sẽ sinh ra
các hồng cầu to bất thường nhưng lại chứa một lượng hemoglobin bình thường.
Acide folic rất cần cho mẹ và thai nhi. Nhu cầu acide folic thường tăng gấp đôi
trong lúc mang thai. Nếu chế độ ăn uống đầy đủ sẽ cho phép thỏa mãn sự đòi hỏi
cần tăng lên ngoại trừ trường hợp có rối loạn việc hấp thụ acide folic và thiếu
acide folic thường phối hợp với việc thiếu sắt. Đây cũng chính là hai nguyên nhân
chính dẫn đến thiếu máu trong thai kỳ.
Đặc biệt, nếu thiếu Vitamin B12 cũng gây ra thiếu máu
hồng cầu khổng lồ. Cho nên biểu hiện thiếu máu trong thai kỳ được biểu hiện tình
trạng thiếu sắt, hiếm gặp hơn là thiếu Folat.
3. ĐỊNH
NGHĨA THIẾU MÁU TRONG THAI NGHÉN
Người ta định nghĩa thiếu máu trong thai nghén khi tỷ
lệ hemoglobin (Hb)<10g/100ml và được gọi là thiếu máu nặng nếu Hb <
8g/100ml máu.
4. NGUYÊN
NHÂN VÀ CÁC YẾU TỐ THUẬN LỢI GÂY NÊN THIẾU MÁU TRONG THAI NGHÉN
- Đẻ
nhiều lần.
- Cho
con bú kéo dài.
- Đa
thai.
- Chảy
máu kéo dài trước lúc có thai (rong kinh...)
- Chế độ
ăn uống nghèo dinh dưỡng.
Về góc độ dịch tể học thì các phụ nữ Bắc Phi có đầy đủ
các yếu tố thuận lợi nói trên.
Ngoài ra, một yếu tố thuận lợi khác là nhiễm khuẩn đường
tiết niệu (đặc biệt là nhiễm khuẩn mãn tính đường tiết niệu cũng thường gây nên
thiếu máu).
5. TRIỆU
CHỨNG LÂM SÀNG
- Da,
niêm mạc nhợt nhạt.
- Suy
nhược cơ thể.
- Nhịp
tim nhanh, khó thở, ù tai, chóng mặt.
- Có thể
viêm lưỡi (3 tháng cuối thai kỳ)
- Vàng
da nhẹ: có thể do thiếu Folat
6. TRIỆU
CHỨNG CẬN LÂM SÀNG
- Xét
nghiệm công thức máu: hồng cầu giảm.
-
Hemoglobin (Hb) giảm < 10g/100ml máu.
- Xét nghiệm tủy đồ: hồng cầu nhỏ, hồng cầu to,
hồng cầu bình thường tùy theo loại thiếu máu.
- Xét
nghiệm sắt huyết thanh, Acide folic, Folat đều giảm.
7. TIÊN
LƯỢNG
Thiếu máu trong thai nghén có thể dẫn đến:
- Nguy
cơ đẻ non, suy dinh dưỡng thai nhi.
- Tăng
thể tích bánh rau.
- Nếu
chảy máu thêm trong thai kỳ, lúc chuyển dạ, sau đẻ... thì tình trạng sản phụ nặng
hơn so với sản phụ bình thường.
- Tình
trạng thiếu Oxygen làm mẹ mệt, nhịp tim nhanh lên.
- Trong giai đoạn hậu sản, thiếu máu thường làm
tăng nguy cơ nhiễm trùng hậu sản (viêm tắc tĩnh mạch)
8. ĐIỀU
TRỊ
- Nếu tỷ
lệ Hb > 8g/100ml cho sản phụ dùng (sắt) Fe với liều 200mg mỗi ngày là đủ, không
cần chuyền máu cho sản phụ. Có thể dùng các loại như Tardyferon 80 mg,
Tardyferon B9, Ferrous sulfate: dùng liên tục trong thời kỳ mang thai và cả
trong 6 tháng đầu sau đẻ. Nếu bệnh nhân không dung nạp thuốc sắt qua đường tiêu
hóa (trong 3 tháng đầu thai nghén nếu nôn nhiều), có thể dùng đường tiêm:
Jectofer 100 mg: dùng hai ống tiêm bắp 2 ống mỗi ngày.
- Nếu tỷ
lệ Hb < 8g/100ml có thể truyền máu thêm cho sản phụ. Nên truyền máu trước tuần
lễ thứ 36 hay trong điều trị dọa đẻ non, phối hợp điều trị thêm sắt tối thiểu một
tháng để đề phòng mất bù máu lúc đẻ và sau sổ rau.
- Điều
trị dự phòng ở tuyến dưới trong quản lý thai nghén bằng cách cho sản phụ dùng sắt
suốt thai kỳ (đặc biệt nhóm sản phụ có nguy cơ thiếu máu). Cho sử dụng sắt dự
phòng Ferrous sulfate 100mg mỗi ngày. Ngoài sắt cần sử dụng phối hợp acide
folic, Folat (đối với mẹ có tiền sử con họ bị dị dạng ống thần kinh (tật nứt đốt
sống) hay đã dùng các loại thuốc kháng acide folic, thậm chí điều trị dự phòng
ba tháng trước khi thụ thai: cho Speciafuldine 5 mg một ngày hay Lederfolin 15
ngày uống một ống.
9. PHÒNG
BỆNH
Cần phát hiện nguy cơ thiếu máu trong thai nghén bằng
cách cho xét nghiệm:
- Công
thức máu: ở tháng thứ tư của thai nghén và tùy kết quả để xử trí.
- Xét
nghiệm Hemoglobin để điều trị nếu Hb < 10g/100ml.
- Nếu
khám phát hiện có hạch, giảm bạch cầu, giảm bạch cầu đa nhân trung tính, bệnh bạch
cầu cấp, u lymyho bào, xuất huyết giảm tiểu cầu di truyền... cần mời thêm chuyên
khoa huyết học truyền máu để cùng hội chẩn và điều trị.
10. KẾT LUẬN
Đối với các nước chậm tiến hay các nước đang phát
triển như nước ta hiện nay vẫn còn xuất hiện tình trạng thiếu máu trong thai kỳ
cho nên việc quản lý thai nghén cần làm tốt về chất lượng, từ đó có phương án đề
phòng các nguy cơ xảy ra cho mẹ và con do tình trạng thiếu máu gây ra.
nguồn : Sản huế